Khi vào bầu khí quyển của miền thơ, tín đồ thơ quá quen với cụm từ “Thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Tuy nhiên từ “họa” ở đây được hiểu là bức họa do thơ tạo ra thông qua hệ thống ngôn từ giúp người đọc tưởng tượng được. Ví dụ Nguyễn Du có cặp lục bát miêu tả mùa xuân: Cỏ non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ; thì đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân toàn bích trên cái nền xanh của nước non mây núi muôn trùng, điểm nhãn những bông hoa lê như tuyết. Song trên thực tế, thú chơi chữ của các thi sĩ lớn không chỉ là đề thơ tả cảnh tả tình mà họ còn vẽ chữ thành bức tranh và từ bức tranh chữ ấy tạo nên một bài thơ hoàn hảo, đi qua năm tháng để lưu tồn. Trường hợp Tô Đông Pha (Thời Bắc Tống) với bài thơ Trường Đình (Vãn thiếu?) là một điển hình.
Bài thơ này hiện còn lưu trong cuốn “Chơi chữ Hán Nôm, những bài thơ độc đáo” của soạn giả Hải Trung. Tác giả đã đã giới thiệu một bài thơ chơi chữ của Tô Thức (tức Tô Đông Pha) đời Tống có tên là “Trường đình”, tuy nhiên có quan điểm cho rằng tên của bài thơ này là Vãn thiếu (Xa ngắm cảnh chiều)? Nếu lược qua cuộc tranh cãi về tên thi phẩm chúng ta có thể tìm thấy những điều lý thú trong cách “vẽ” chữ của Tô Thức.
Xuất xứ bài thơ.
Không ai rõ thực hư xuất xứ của thi phẩm, nhưng theo truyền thuyết còn ghi lại thì bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Khoảng năm 1082, Ông làm Thông phán ở Hàng Châu, rồi chuyển qua Mật Châu, Từ Châu, Hồ Châu; có hồi vì chê bai tân pháp mà bị giam vào ngục, rồi biếm đi Hoàng Châu. Trên đường bị áp giải ông nhận được lệnh của Nhà vua xóa tội và cho hồi triều gấp.
Khi hồi triều Tô Thức mới hiểu sự việc. Đó là Sứ giả nước Liêu cậy tài văn chương ra một bài thơ đố các triều thần nước Tống hiểu được dụng ý thâm sâu của nó. Khốn nỗi đây là giai đoạn triều đình Tống đang suy vi, nhân tài hiếm hoi, nên không có ai giải được bài thơ của Sứ Liêu. Vì lòng tự tôn dân tộc và chí khí của danh sĩ tài năng, Tô Thức đã “vẽ” ngay bài thơ này và nói với Sứ Liêu rằng “Phú thi diệc dị sự dã, quan thi nan sự nhĩ” (Làm thơ cũng là việc dễ, xem thơ mới là việc khó).”. Khi nhìn vào “Bức tranh chữ” do Tô Thức “vẽ”, quả thật Sứ Liêu câm bặt.
Thông điệp của thi phẩm :
Bài thơ này “vẽ” theo đề tài miêu tả cảnh chiều điển hình: có khung cảnh thiên nhiên mây núi, sông tráng lệ nhưng u buồn, và người là ông lão hòa nhập bóng mình vào cảnh, toàn bộ không khí u trầm gợi nhiều liên tưởng. Bức tranh chỉ có 12 chữ, có chữ viết rất dài, có chữ viết ngắn; có chữ viết ngang, có chữ viết nghiêng; có chữ viết quay ngược theo chiều ngang, có chữ viết đảo ngược theo chiều dọc, chữ thì gầy nét… tất cả hầu như phá cách khuôn mẫu chữ quy định.
Bởi vậy, bài thơ không thể đọc bình thường khi nhìn vào từng con chữ. Bởi phải đọc nghĩa của chữ theo cách vẽ của tác giả đấy mới là chuẩn nghĩa. Và từ đó ghép lại thành bài thơ như bình thường.
Về cách viết:
Chữ ĐÌNH,viết rất dài,cho nên đọc là TRƯỜNG ĐÌNH .
Chữ ẢNH, viết rất ngắn, đọc là ĐOẢN ẢNH .
Chữ HOẠ , viết thiếu chữ “nhân”, ở phần dưới ,đọc là VÔ NHÂN HOẠ
Chữ LÃO, viết khá to,đọc là LÃO ĐẠI
Chữ THA , viết ngang, đọc là HOÀNH THA.
Chữ CUNG, có bộ “trúc” viết rất gầy, đọc là SẤU TRÚC CUNG.
Chữ THỦ, viết quay lại,đọc là HỒI THỦ.
Chữ VÂN , nghĩa là mây, trên là chữ “vũ”, dưới là chữ “vân” nghĩa là nói, cự li giữa trên dưới khá xa ,đọc là ĐOẠN VÂN ,
nghĩa là đám mây bị đứt đoạn.
Chữ MỘ có bộ “nhật” phía dưới viết nghiêng [đọc là TÀ NHẬT MỘ.
Chữ GIANG viết thành giang, có bộ “công” ở bên trái bị gãy khúc, đọc là KHÚC GIANG.
Chữ TIẾU viết đảo ngược.đọc là ĐẢO TIẾU.
Chữ PHONG có bộ “sơn” viết nghiêng đọc là TRẮC SƠN PHONG
Như vậy, công thức đọc chung cho 12 chữ mà thi sĩ Tô Đông Pha đưa ra là ghép mỗi chữ sau tính từ hoặc cụm từ chỉ tính chất của cách viết chữ đó, trừ trường hợp chữ LÃO ghép ngược thành LÃO ĐẠI chứ không phải “đại lão” (theo Từ nguyên).
Vãn thiếu
Trường đình đoản cảnh vô nhân hoạ,
Lão đại hoành tha sấu trúc cung.
Hồi thủ đoạn vân tà nhật mộ,
Khúc giang đảo tiếu trắc sơn phong.
Dịch nghĩa:
XA NGẮM CẢNH CHIỀU
Không ai vẽ lại cảnh ngắn về ngôi đình dài,
Ông già kéo ngang cây gậy trúc [khô] gầy.
Ngoảnh đầu [nhìn thấy] nơi trời chiều đã xế bóng [có một] đám mây đứt đoạn,
Đỉnh núi nghiêng in ngược [bóng] xuống dòng Khúc Giang.
(Quan điểm dịch của Nguyễn Tuấn Cường)
Dịch thơ:
Đình dài cảnh ngắn không người vẽ,
Ông lão kéo ngang gậy trúc gầy.
Ngoảnh đầu, mây đứt nơi chiều xế,
Đỉnh núi nghiêng soi Khúc Giang này.
Theo Từ nguyên, cách chơi chữ trong bài thơ này có tên là “thần trí thể” (thể thần trí) và giải thích rằng: “Thể thần trí: một thể thơ gần với chơi chữ. Do nó có thể làm khởi phát thần trí của người ta nên gọi như vậy”.
Những kiểu chơi chữ này, hiện nay dường như bị lãng quên trong thế giới mà con người luôn phải chạy đua với thời gian. Nhưng chắc chắn nó là một thứ văn hóa đẹp rèn trí thông tuệ và nuôi dưỡng tâm hồn. Với riêng các thi sĩ thì nó còn là một miền riêng cho sự suy ngẫm về nghệ thuật thi ca.
Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia(1) của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phứt tạp nhất.
Năm 21 tuổi ông đậu Tiến sĩ, nhờ bài Hình thưởng trung hậu chi chí luận (bài này Âu Dương Tu rất thưởng thức, ngờ là của Tăng Củng làm nên không lấy ông khôi nguyên mà hạ xuống á nguyên). Ông sáng tác được 4000 bài thơ, 300 bài từ, tản văn rất nhiều bày hay (như Phóng Hạc đình kí, Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú...v.v...) Tác phẩm ông lưu lại có bộ Đông Pha văn tập 60 quyển, bộ Đông Pha thi tập 25 quyển, bộ Đông Pha từ 1 quyển, bộ Cửu Trì bút kí 2 quyển, bộ Đông Pha chí lâm 5 quyển. Ngoài ra, vâng lời dặn dò của cha lúc lâm chung, ông viết tiếp cuốn Dịch truyện mà cha bỏ giở, rồi viết thêm những cuốn: Luận ngữ thuyết, Thư truyện để truyền bá đạo Khổng. Văn nhân đương thời rất trọng ông, và coi ông là người nối gót Âu Dương Tu trên văn đàn.
Ông vì chịu ảnh hưởng của Lão, Trang, nên văn ông như hành vân lưu thủy, hùng vĩ mà khoáng đạt, không chịu một sự trói buột nào . Chẳng những văn ông hay, thơ ông tuyệt mà vẽ cũng khéo, viết chữ cũng tài, ông lại thông cả âm nhạc nữa. Thực là một thiên tài trác việt.