Những căn cứ của UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới thứ 21

Ngày 2.10.2010, UNESCO vừa trao tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh cuốn sách văn bản Nghị quyết của Đại hội đồng UNESCO về việc tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Đây là sự kiện diễn ra trong khuôn khổ triển lóm "Hồ Chớ Minh và học tập suốt đời".  

Từ ngày 20/10 đến 20/11/1987, Đại hội đồng UNESCO khoá 24 họp ở Thủ đô Pari, có mục xét các danh nhân kỷ niệm vào các năm “tuổi tròn”. Đến dự có 159 quốc gia. Kỳ họp này, bà Chủ tịch UNESCO là người Thái Lan, làm chủ tọa. Nội dung kỳ họp là : Trong 3 năm 1988, 1989, 1990, chọn xét những danh nhân đúng vào tuổi 100 để thế giới kỷ niệm. Kỳ này, có 3 nhân vật được đưa ra xét : 1.Ông Nê-ru, ấn Độ ;2.Ông Hồ Chí Minh, Việt Nam; 3. Ông Hadara (nhà sử học) Liên Xô. Sau 7 tiếng hội thảo, Hồ Chí Minh được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới thứ 21.  

Nghị quyết 24C/18-65 nêu rõ : “ Ghi nhận năm 1990 sẽ đánh dấu 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Nhận thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội… ”.
Và ngay sau nghị quyết này 88 nước thực hiện tổ chức ngày kỷ niệm của Người.
Sự thật thì để đi đến kết luận trên, trong thời điểm hệ thống các nước XHCN Đông Âu đang tan rã việc xét công nhận lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp không ít khó khăn thậm chí đại diện một số nước và dư luận của một số tổ chức phản động lên tiếng cản trở. Tuy nhiên sự thật bao giờ cũng là chân lý, bằng lý lẽ của mình UNESCO đã thuyết phục được thế giới.  

1- Hồ Chí Minh là lãnh tụ có trình dộ học vấn uyên thâm, uyên bác, người có trí tuệ siêu việt của thế kỉ XX (UNESCO). Người đề cập đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Người để lại dấu ấn sâu đậm trong quá trình phát triển  xã hội loài người ở thế kỉ XX. Góp phần làm phương pháp và phát triển các giá trị chung của nhân loại.  

Cuộc đời Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình, Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau trên các châu lục để trực tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu  - một việc mà không có lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ 20 . Chính trong thời kỳ này Người đã có công lớn trong nghiên cứu bản chất quy luật CNTD và chỉ cho nhân loại con đường thoái khỏi CNTD đó, thông qua các hoạt động báo chí và xuất bản  tác phẩm từ năm 1919 tại Pháp và các nước khác trên thế giới . Đây chính là thành tựu về lý luận mà Hồ Chí Minh đạt được để dâng hiến cho các dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới đang bị CNTD áp bức đoạ đày.  

Tại Việt Nam, cách đây gần 70 năm, các nước thuộc địa trên thế giới chìm trong một đêm dài nô lệ, chưa có nước nào giành được độc lập, thì nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã dám đương đầu với một nước có nhiều thuộc địa và giành thắng lợi, mở đầu cho thời kỳ giải phóng dân tộc. Chính vì vậy ngay từ năm 1960, UNESCO tuyên bố xác nhận việc xoá bỏ CNTD toàn cầu có công của Hồ Chí Minh .  

UNESCO thấy rằng, Hồ Chí Minh còn là nhà giáo dục, Người đặt nền móng cho nền giáo dục Việt Nam, Người đã đề ra phong trào xoá nạn mù chữ đầu tiên vào năm 1945, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Người coi giáo dục đào tạo  là chiến lược của một quốc gia để xoá bỏ đói nghèo lạc hậu và vươn tới văn minh “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm chúng ta phải trồng người”. Đây là nguyên thủ một quốc gia nhỏ mà có tầm nhìn dự báo chiến lược.  Hồ Chí Minh cũng chính là người đề ra Tết trồng cây từ những năm giữa thế kỷ XX để bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái. Mà mãi đến nhứng thập niên 90 của thế kỷ XX thế giới mới đề cập đến khi những vấn đề  văn hoá, môi trường toàn cầu nóng lên báo động. Đó là tư tưởng, hành động của nhà văn hoá kiệt xuất.

Xu thế của thế giới ngày nay là tránh đối đầu, thì Hồ Chí Minh đã có tư tưởng đối thoại từ năm 1946. Khi để quân Tưởng rút khỏi nước ta, Bác đã vừa kiên quyết vừa mềm mại thuyết mục và hỗ trợ kinh phí cho quân đội Tưởng. Để tránh cuộc chiến tranh Pháp – Việt, Bác sang Pháp 4 tháng để đối thoại, và kết quả ra đời Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 và Tm ước 14/9/1946 . Do đó, Liên hợp quốc coi Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề ra đối thoại và đã lựa chọn phương pháp tiến hành đối thoại là một phương pháp chủ công của Liên hợp quốc trong thế giới luôn nóng bỏng các vấn đề.

Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất vì Người là biểu tượng của sự hội tụ hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Trước hết, Hồ Chí Minh là tượng trưng cao đẹp nhất của văn hóa Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. “Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn ngàn năm lịch sử” (Lê Duẩn ).

Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được hấp thụ nền Quốc học và Hán học, tiếp thu tinh hoa văn hóa phương đông; Người còn nghiên cứu và tiếp thu tinh hoa văn hóa phương tây. Người là nơi hội tụ hài hòa, là biểu tượng của nền văn hóa mới của nhân loại. Điều này, nhà văn  Manđenxtam từ năm 1923,  đã cảm nhận : “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa không phải văn hóa châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”.

Người sớm thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa. Cách mạng Tháng Tám thành công, Người phát động phong trào diệt giặc dốt. Năm 1951, Người khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ hai của Đảng (1951), Người chủ trương “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.

Hồ Chí Minh là biểu tượng của đường lối ngoại giao văn hóa. Người dặn: “Mình có thể bắt chước cái hay của bất cứ nước nào ở Âu Mỹ, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả” .

Người chủ trương đường lối ngoại giao văn hóa, đối thoại hòa bình, hiểu biết, tôn trọng và nhân nhượng lẫn nhau để giải quyết mọi tranh chấp.

UNESCO còn xét Hồ Chí Minh về mặt đạo đức, đó là văn hoá của người lãnh đạo quần chúng . 24 năm là nguyên thủ quốc gia mà không tha hoá. Hồ Chí Minh là một nhân cách của một người cầm quyền kiểu mới. Khi chưa có chính quyền, Người sống với nhân dân, khi giành được chính quyền, Người phục vụ nhân dân. Người tiêu biểu cho thế kỷ XX – thế kỷ mà thế giới đang đứng trước một thảm hoạ tha hoá về văn minh vật chất.

Hồ Chí Minh là nhà hoạt động văn hóa và sáng tạo văn hóa với những đóng góp quan trọng thúc đẩy hoà bình vì hạnh phúc loài người. Người đã viết hơn 2.000 bài báo với 167 bút danh khác nhau  đã được đăng ở nhiều báo trong, ngoài nước bằng tiếng Việt, Pháp, Hán, Nga, Anh... Bài báo đầu tiên là Quyền của các dân tộc thuộc địa ký tên Nguyễn ái Quốc đăng trên Báo Nhân Đạo (L’Humanité) ngày 18 tháng 6 năm 1919; bài báo cuối cùng là Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng ký tên T.L đăng trên Báo Nhân Dân ngày 1 tháng 6 năm 1969. Người cũng đã sáng lập nhiều tờ báo quốc tế và trong nướcl đồng thời cũng là nhà báo cách mạng thế giới: Người có trên 100 bài đăng trên báo L’Humanité; khoảng 30 bài đăng trên Báo Le Paria (Người cùng khổ), cơ quan của Hội Liên Hiệp Thuộc Địa.

Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Người viết nhiều thể loại: thư từ, ký, truyện ngắn, tiểu thuyết du ký, truyện viễn tưởng, kịch, tiểu phẩm, văn chính luận. Có thể kể một số tác phẩm nổi tiếng của Người như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Rồng tre (Kịch) Đường cách mệnh (Lý luận),  Nhật ký chìm tàu (Tiểu thuyết),  Lịch sử nước ta (Diễn ca), Nhật ký trong tù (Tập thơ), Tuyên ngôn độc lập... tác phẩm Ngục trung nhật ký là một tác phẩm lớn giàu chất “Đường thi” lấp lánh tình cảm quốc tế, tình yêu con người. Đặc biệt Tuyên ngôn độc lập của Người được xếp vào nhóm 5 bản tuyên ngôn nổi tiếng nhất thế kỷ, bởi nó không chỉ là tuyên ngôn của Việt Nam mà đồng thời còn là tuyên ngôn của các dân tộc bị CNTD áp bức, là phát súng hiệu triệu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cho các nước thuộc địa trên toàn thế giới.

UNESCO cũng thừa nhận giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân của khát vọng của các dân tộc tôn trọng việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hoểi biết lẫn nhau.  Bằng tấm gương của mình Hồ Chí Minh đã khắc phục sự đối đầu 2 dòng văn hoá Đông – Tây – Nhịp cầu nối liền bờ văn hoá Đông – Tây, nhân cách văn hoá, phát triển văn hoá dân tộc mình và nhân loại.

Chính vì vậy, nghị quyết của tổ chức UNESCO khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất vì “những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Tư  liệu tham khảo : Hồ Chí Minh toàn tập;

Giáo trình,  tài liệu của Học Viện CT- HC quốc gia