Giải Nobel và Nobel văn học

nobel1Giải Nobel lập nên theo nguyện vọng cuối cùng của Alfred Nobel , một nhà hoá học, nhà công nghiệp học và người phát minh ra thuốc nổ của Thuỵ Điển. Alfred Nobel đã viết nhiều bản di chúc trong cuộc đời của mình. Bản cuối cùng viết vào ngày 27 tháng 11 năm1895, một năm trước khi ông mất. Ông kí tên trong một quán bar ở Paris. Ông đã thấy tổn thương vì phát minh thuốc nổ của ông được sử dụng cho mục đích dã man và ông muốn giải thưởng của ông phục vụ cho nhân loại. Trong bản di chúc, Alfred đã dành 94% trị giá tài sản (khoảng 2 000 000 bảng Anh) và lấy lãi hàng năm để lập nên 5 giải Nobel (Vật lý, Hoá học, Y học, Văn học, và Hoà bình) cho "những ai, trong những năm trước khi giải được trao đó, đã đưa đến những lợi ích nhất cho con người.". Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế để tưởng nhớ nhà khoa học Alfred Nobel. Do chưa hoàn tất và vì các trở ngại khác, phải đến 5 năm sau khi ông mất, Quỹ tài trợ Nobel mới ra đời và giải Nobel đầu tiên được trao năm 1901.
Giải thưởng Nobel, hay giải Nobel, là một giải thưởng quốc tế được tổ chức kết quả đoạt giải được công bố hằng năm vào tháng 10 . Người đạt giải, được trao (bao gồm tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10/12 của năm đó, nhân kỷ niệm ngày mất của Nobel. Các giải Nobel không bắt buộc phải được trao hàng năm, nhưng ít nhất phải được trao một lần trong 5 năm. Một giải khi đã trao thì không bao giờ bị tước. Giải Nobel được trao cho tối đa 3 người mỗi năm.
Giải Nobel Văn học (Nobelpriset i litteratur- tiếng Thuỵ Điển) là một trong sáu nhóm giải thưởng của Giải Nobel, giải được trao hàng năm cho một tác giả từ bất cứ quốc gia nào có, theo cách dùng từ trong di chúc của, Alfred Nobel tác phẩm xuất sắc nhất theo khuynh hướng duy tâm(nguyên văn tiếng Thụy Điển: "den som inom litteraturen har producerat det utmrktaste i idealisk riktning"). "Tác phẩm" ở đây có thể là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của người được trao giải hoặc là một số tác phẩm riêng biệt được nêu trong phần lí do trao tặng. Cơ quan quyết định người được nhận Giải Nobel Văn học là Viện Hàn lâm Thuỵ Điển quyết định này được công bố vào đầu tháng 10 hàng năm.
Câu trích dẫn trong di chúc của Nobel về giải thưởng này đã dẫn đến nhiều tranh cãi. Trong tiếng Thụy Điển, từ idealisk vừa có thể hiểu là duy tâm (idealistic), vừa có thể hiểu là lý tưởng (ideal). Vì vậy trong giai đoạn đầu của Giải Nobel Văn học, ủy ban Nobel đã gặp nhiều lúng túng trong việc lựa chọn người xứng đáng và đã bỏ qua nhiều nhà văn nổi tiếng Thế giới như Lev Tolstoy hay, Hernik Ibsen với lý do là tác phẩm của các tác giả nhà chưa đủ "duy tâm". Tuy nhiên giai đoạn sau, nguyên tắc cứng nhắc này đã được nới lỏng và người được nhận giải thưởng thường đều là những tác giả được Thế giới công nhận
Hàng năm Viện Hàn lâm Thuỵ Điển sẽ gửi các đề nghị đề cử những tác giả theo họ là xứng đáng được trao Giải Nobel Văn học. Ngoài các viện sĩ của Viện Hàn lâm Thụy Điển thì thành viên của các hội và viện hàn lâm văn học, giáo sư văn học và ngôn ngữ, những người từng được trao giải thưởng này và chủ tịch các hiệp hội nhà văn cũng được quyền đề cử, tuy nhiên họ không được quyền đề cử bản thân mình.
Mỗi năm có hàng ngàn đề nghị được gửi đi và có khoảng 50 đề cử phản hồi. Các đề cử phải được gửi đến Viện trước ngày 1 tháng 2, sau đó nó sẽ được một ủy ban xem xét kỹ lưỡng. Từ tháng 4, Viện bắt đầu giới hạn số ứng cử viên xuống còn khoảng 20 và đến mùa hè thì chỉ còn khoảng 5 tác giả nằm trong danh sách đề cử. Các tháng tiếp theo, viện sĩ của Viện bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của những ứng cử viên cuối cùng này. Đến tháng 10, các viện sĩ sẽ bỏ phiếu, và ứng cử viên nào nhận được quá bán số phiếu sẽ là người được trao giải. Quá trình này diễn ra tương tự với thủ tục xét giải của các giải Nobel khác. Nói chung thì việc đề cử và thảo luận về các ứng cử viên sẽ được giữ kín trong vòng 50 năm, tuy vậy đôi khi các tác giả cũng được thông tin về việc mình được đề cử.
Khoản tiền kèm theo Giải Nobel Văn học đã thay đổi nhiều lần kể từ khi giải đầu tiên được trao năm1901, đến đầu thế kỉ 21, trị giá của nó vào khoảng 10 triệu kronor. Tác giả được trao Giải Nobel Văn học sẽ được nhận số tiền này kèm theo một giấy chứng nhận của ủy ban Nobel và một huy chương vàng, đồng thời họ cũng sẽ được mời phát biểu tại lễ trao giải diễn ra vào ngày 10 tháng 12 hàng năm tại Stockholm.
Giải Nobel Văn học không phải không có những khuyết tật cần phải khắc phục. Trong tiến trình lịch sử của giải đã xuất hiện một số sai lầm. Dưới đây đơn cử một số sự cố đã xảy ra.
Giải Nobel Văn học từ lâu đã có một số tranh cãi trong dư luận và giới chuyên môn. Từ năm 1901 đến năm1912, với cách diễn dịch nguyện vọng của Nobel là trao giải cho những tác giả theo khuynh hướng "duy tâm", ủy ban đã bỏ qua rất nhiều tác giả nổi tiếng Thế giới lúc bấy giờ.
Trong quãng thời gian diễn ra chiến tranh thế giới 1, và vài năm sau đó, ủy ban trao giải đã áp dụng chính sách trung lập, dẫn đến việc ưu tiên tác giả từ những nước không tham chiến hơn là các tác giả đến từ các nước tham gia Thế chiến thứ nhất vốn đều là các quốc gia có nền văn học phát triển..

Năm1974, ba tác giả nổi tiếng Thế giới là Graham Greene,Vladimir Nabokov và Saul Bell ow đều được đề cử, nhưng giải thưởng lại lọt vào tay các tác giả người Thụy Điển ít tên tuổi hơn là Eyvind Johoson và Harry Martinson, vốn cũng nằm trong ủy ban xét tặng giải thưởng này. Sau đó Bellow được trao giải năm 1976 nhưng Greene và Nabokov thì không bao giờ được xét tặng giải thưởng này nữa.

Lựa chọn của Viện Hàn lâm Thụy Điển cho giải thưởng năm 2004, nữ nhà văn Áo Elfriede Jenlinek, đã bị chỉ trích từ ngay trong thành phần viện sĩ của Viện. Knut Ahnlund (người đã không còn thực sự hoạt động ở Viện Hàn lâm từ năm 1996) đã từ chức và nói rằng việc lựa chọn Jelinek đã gây ra những thiệt hại không thể bù đắp được cho danh tiếng của giải.
Từ năm 1901 đến 2009, đã có 537 Giải thưởng Nô-ben và Giải thưởng kinh tế được trao cho 829 người đạt giải bao gồm 806 cá nhân và 23 tổ chức đã được nhận Giải Nô-ben. Trong số họ, 64 người đã nhận Giải Kinh tế học.
Xét về giải văn học, đã có trên 100 giải được trao cho các tác giả nhiều quốc tịch. có 36 quốc gia đã có tác giả đạt giải. Nếu thống kê theo ngôn ngữ, số giải thuộc về ngôn ngữ như sau : Tiếng Anh (26 tác phẩm); Tiếng Pháp (14 tác phẩm); Tiếng Đức (13 tác phẩm); Tiếng Tây Ban Nha (10 tác phẩm) Tiếng ý và Thuỵ Điển(6 tác phẩm) Tiếng Nga (5 tác phẩm) Ba Lan (4 tác phẩm), Đan Mạch và Na Uy (3 tác phẩm); Nhật, Hy Lạp (2 tác phẩm).Các thứ tiếng sau có 1 tác phẩm: Tiếng ả rập, Hán; Bengal; Thổ; Hunggari; Bồ Đào Nha; Sec, Yiddsh, Hebrew, Serbia, Iceland.nobel

      Giải Nobel là một giải thưởng quốc tế danh giá. Các nước Đông Nam Á, chưa bao giờ có tên tuổi được đề cử và cả Châu Á cũng rất ít, mặc dù nơi đây là một cái nôi văn chương lớn. Đấy là điều cần suy nghĩ. Nhà chính trị Lê Đức Thọ của Việt Nam là người được đề cử nhận giải Nobel vì hoà bình cùng với tiến sĩ Henri Kítsinhjơ (Ngoại trưởng Mỹ), năm 1973, khi Ông tham dự hội nghị 4 bên đấu tranh cho hoà bình tại Việt Nam, nhưng ông đã từ chối nhận giải. Có lẽ ông nghĩ ông đấu tranh vì hoà bình dân tộc chứ không vì giải Noben. Đấy thực sự là một điều đáng tiếc vì quan niệm của giải No bel là phi chính trị và chỉ dành cho những đóng góp vì con người, vì hoà bình. Và đương nhiên Việt Nam bị mất tên trong bảng tổng sắp các quốc gia nhận giải. Để kết thúc bài biên tập này chúng tôi xin trích lại phần di chúc của Alfred Nobel :

Tất cả tài sản còn lại của tôi được thực hiện như sau đây: Số tiền vốn sẽ được người thực hiện di chúc đầu tư vào các nguồn an toàn và lập nên quỹ, và lợi nhuận nói trên được chia thành các giải thưởng cho những ai trong những năm trước khi nhận giải đã phục vụ tốt cho nhân loại. Lợi nhuận nói trên được chia ra làm 5 giải thưởng bằng nhau, chia ra như sau: một phần cho người có phát hiện hay phát minh quan trọng nhất trong lĩnh vực vật lý, một phần cho người có phát hiện và phát triển quan trọng nhất trong hóa học; một phần cho người có phát hiện quan trọng nhất trong lĩnh vực sinh lý học hay y học; một phần cho người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực văn chương tác phẩm nổi bật nhất với khuynh hướng lý tưởng hóa; và một phần cho người đã đóng góp nhiều nhất hay tốt nhất nhất cho tình anh em giữa các dân tộc, cho sự xóa bỏ hay giảm thiểu quân đội thường trực và cho sự giữ gìn và tăng tình hữu nghị giữa các nước.